Để ngành Vật liệu xây dựng phát triển bền vững
Theo ước tính của Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam (VLXDVN), do
khủng hoảng kinh tế tài chính, nhu cầu xi măng nội địa trong ba năm 2011 - 2013
sẽ giảm khoảng 14 - 15 triệu tấn, đến năm 2015 nhu cầu ước khoảng 60 - 65 triệu
tấn (quy hoạch dự báo 75 - 76 triệu tấn). Như vậy nếu tiếp tục đầu tư theo
Quyết định số 1488/QĐ-TTg thì đến năm 2015, tổng công suất các nhà máy xi măng
sẽ đạt 94,24 triệu tấn, thừa khoảng 25 triệu tấn và đến năm 2020 sẽ đạt đến
129,5 triệu tấn, thừa trên 40 triệu tấn công suất. Do vậy, đề nghị Chính phủ
chỉ đạo rà soát và điều chỉnh lại Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt tại Quyết định số 1488/QĐ-TTg ngày 29/08/2011; cương quyết cắt bỏ, điều
chỉnh lại danh mục các dự án cho phù hợp với tình hình phát triển của thị
trường; đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý thực hiện, thống nhất
quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Tái cấu trúc doanh nghiệp xi măng
Một thực tế là bên cạnh các nhà máy xi măng lò quay hiện đại,
Việt Nam cũng đã đầu tư 30 dây chuyền có công suất dưới 1.600 tấn/ngày với tổng
công suất 11,6 triệu tấn. Đây là những dây chuyền có công nghệ lạc hậu, tiêu
tốn năng lượng lớn, năng suất lao động thấp, ô nhiễm môi trường. Hiện còn 9 dự
án chuẩn bị đầu tư, đề nghị không tiếp tục đầu tư, đưa ra khỏi quy hoạch; đồng
thời xem xét lại 9 dự án xi măng lò quay công suất 2500 tấn clanhke/ngày, dự
kiến đầu tư giai đoạn 2016 - 2030, có công nghệ trung bình, không còn phù hợp
với sự phát triển của ngành xi măng hiện đại đến năm 2030. Một số dự án khác
không có đủ nguồn nguyên liệu đá vôi để sản xuất nằm trên địa bàn cần bảo vệ
cảnh quan, di tích, bảo vệ môi trường sinh thái, không nên đầu tư như xi măng
Hệ Dưỡng dây chuyền 2 (Ninh Bình), xi măng Mỹ Đức (Hà Nội), xi măng Xuân Thành
2 (Hà Nam). Riêng các dự án chủ đầu tư không đủ năng lực, đã cấp phép nhiều năm
vẫn chưa xây dựng nên rút giấy phép như xi măng An Phú và Minh Tâm (tỉnh Bình
Phước), Đô Lương (Nghệ An), nhà máy đặt trên mỏ đá vôi Long Thọ 2 và Nam Đông
(Thừa Thiên Huế), Trường Thịnh (Quảng Bình).
Trong 46 công ty sản xuất kinh doanh xi măng hiện nay, chỉ có
Tổng Công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam (Vicem) có công suất hơn 20 triệu
tấn/năm. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xi măng không có năng lực quản
lý, thiếu vốn, sản xuất kinh doanh thua lỗ đã phá sản và bên bờ vực phá sản; đề
xuất kiến nghị, nên Việt Nam cần sớm hình thành các tổ hợp sản xuất xi măng
lớn, đủ sức mạnh cạnh tranh, làm chủ thị trường xi măng Việt Nam. Bên cạnh đó,
vì xi măng là mặt hàng chiến lược hết sức quan trọng gắn với tài nguyên không
tái tạo; vị trí mỗi nhà máy xi măng gắn với an ninh quốc phòng, an ninh quốc
gia, do đó khi Nhà nước cho chủ trương đầu tư cần cân nhắc lựa chọn chủ đầu tư
có đủ năng lực tài chính, và trình độ quản lý, vận hành; tránh tình trạng đầu
tư xong không trả được nợ vay, phải đem bán cho nước ngoài, nhất là các dự án
nằm ở vùng nguyên liệu đá vôi hiếm như ở vùng Đông Nam bộ, ở vùng biên giới
liên quan đến an ninh quốc gia. Hiện nay các công ty có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) chiếm đến 33% công suất toàn ngành. Gần đây có công ty xi măng
Chinfon và xi măng Thăng Long đã bán cho Tập đoàn Semen Gresik Indonesia bao
gồm cả dự án xi măng Thăng Long mở rộng và dự án xi măng An Phú tại Bình Phước
(theo dự kiến họ sẽ đưa tổng công suất lên 10 triệu tấn vào năm 2016).
Bên cạnh đó, cần chấn chỉnh công tác xuất khẩu clanhke, xi măng,
bởi hiện có quá nhiều đơn vị xuất khẩu, thi nhau hạ giá bán để cạnh tranh lẫn
nhau. Do đó, cần lập lại trật tự thị trường xuất khẩu theo nguyên tắc xuất khẩu
không được bán phá giá và không được thấp hơn giá bán nội địa nhằm đảm bảo lợi
ích quốc gia và hiệu quả của doanh nghiệp. Để khắc phục, co thể giao cho Hiệp
Hội Xi măng Việt Nam làm đầu mối để thống nhất thị trường, tạo mặt bằng giá
xuất khẩu hợp lý, thâm nhập vào thị trường lớn, giảm được tình trạng hàng năm
Việt Nam xuất khẩu hàng triệu tấn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt
hại cho doanh nghiệp và Nhà nước 70 - 80 triệu USD/năm.
Nâng hiệu quả quy hoạch ngành
Theo HVLXDVN, đến nay ngành công nghiệp vật liệu xây dựng của
Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ về sản lượng, chũng loại mặt hàng và cả về chất
lượng sản phẩm, đáp ứng đầy đủ nhu cầu xây dựng trong nước và có nhiều khả năng
xuất khẩu ra nước ngoài. Nhưng trong năm qua, bên cạnh việc đầu tư xây dựng
trong nước suy giảm; hàng vật liệu xây dựng như gốm sứ xây dựng, kính xây dựng,
đá ốp lát, sơn các loại, tấm lợp kim loại,... lại ồ ạt nhập khẩu vào Việt Nam,
bán phá giá, làm cho vật liệu xây dựng sản xuất trong nước tồn kho lớn, các
doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, chỉ khai thác khoảng 60 - 80 % năng lực sản
xuất. Để tháo gỡ khó khăn, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành, cơ quan
truyền thông vận động các đơn vị xây dựng sử dụng vật liệu xây dựng trong nước.
Đặc biệt các công trình có vốn Nhà nước. Bộ Giao thông - Vận tải sớm triển khai
ngay việc làm đường quốc lộ, đường cao tốc bằng bê tông xi măng thay thế nhựa
đường nhập khẩu, vừa đảm bảo tính bền vững lâu dài công trình giao thông. Đồng
thời, thi hành các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu các sản phẩm gốm – sứ, kính
xây dựng, đá ốp lát, tổ chức kiểm tra đầu nguồn các sản phẩm nhập khẩu vào Việt
Nam, tăng cường và quyết liệt hơn trong công tác chống mhập lậu và thực hiện
tốt các hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm vật liệu xây dựng.
HVLXDVN cũng đề nghị Bộ Xây dựng đẩy nhanh tiến độ rà soát và
điều chỉnh lại Quy hoạch tổng thể phát triển Vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam
đến năm 2020, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
121/2008/QĐ-TTg, ngày 28/8/2008; khẩn trương xây dựng và ban hành Quy hoạch
công nghiệp sản xuất vôi và Quy hoạch vật liệu ốp lát; để phê duyệt và ban hành
trong năm 2013, đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý thực hiện các
quy hoạch đã dược phê duyệt.
HVLXDVN cũng đề nghị Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng khẩn trương trình
Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện ưu đãi tín dụng và thuế
cho các nhà máy xi măng đầu tư hệ thống thiết bị tận dụng nhiệt khí thải lò
nung clanhke xi măng để phát điện; nhằm tiết kiệm 25% năng lượng (> 1,5 tỷ
KWh) và sử dụng phế thải công nghiệp, rác thải để sản xuất xi măng (theo Quyết
định số 1488/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ); đến nay mới có 3 nhà máy đầu tư
hệ thống phát điện tận dụng nhiệt khí thải, còn 40 nhà máy chưa đầu tư, trong
khi theo Quyết định số 1488/QĐ-TTg, đến năm 2015 tất cả phải thực hiện./.
Bài & ảnh: TRỌNG
HÀ